BÀI TUYÊN TRUYỀN CHÀO MỪNG 79 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2023) VÀ 33 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN(22/12/1989-22/12/2023)
BÀI TUYÊN TRUYỀN CHÀO MỪNG 79 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ 34 NĂM
NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989-22/12/2023)
I, QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - 79 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng
cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 79 năm xây dựng,
phát triển đã kế thừa và phát huy truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc của dân
tộc, vừa chiến đấu vừa xây dựng, ngày càng phát triển và không ngừng trưởng
thành.
1. Sự ra đời của Quân đội nhân dân Việt Nam vai trò nòng cốt trong cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Trong Luận cương Chính trị đầu tiên, Đảng ta
đã khẳng định sự tất yếu phải tổ chức ra quân đội công nông để giành chính quyền.
Vì vậy, khi vừa ra đời, trong phong trào cách mạng 1930-1932, Đảng đã chủ
trương thành lập các Đội tự vệ đỏ (xích đỏ). Những năm 1940-1945, lần lượt các
tổ chức vũ trang ra đời như: Đội du kích Bắc Sơn, du kích Nam Kỳ, đội du kích
Ba Tơ, đội Du kích Pắc Bó, Cứu Quốc quân. Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của
phong trào đấu tranh vũ trang đòi hỏi phải có một đội quân chủ lực thống nhất
về mặt tổ chức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, Tháng 12/1944 Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu
đội. Ngay sau ngày thành lập, ngày 25/12/1944 Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân đã Chiến thắng trận Phai Khắt, Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống
đánh là chắc thắng, thắng ngay từ trận đầu của quân đội ta.
Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng
Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân, Cứu Quốc quân và các tổ chức vũ trang khác...) thành
lập Việt Nam Giải phóng quân; Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định
Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương
phân công đảm nhận cương vị Tư lệnh các lực lượng vũ trang.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng
8/1945, lực lượng vũ trang đã làm nòng cốt, hỗ trợ cho phông trào nổi dậy của
quần chúng Nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, Việt Nam Giải phóng quân được đổi tên thành Vệ Quốc quân. Năm 1946,
Vệ Quốc quân đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1950, đổi tên thành Quân
đội nhân dân Việt Nam.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
a. Tham gia xây dựng, bảo vệ chính quyền và tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -1946)
Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền
Nhân dân ra đời đã phải đứng trước một tình thế vô cùng phức tạp, khó khăn. Vừa
phải chống “giặc đói”, “giặc dốt” và các tệ nạn xã hội; vừa phải tập trung
chống “giặc ngoại xâm” ngay từ đầu. Ở Nam Bộ, ngày 23 tháng 9 năm 1945, được
quân Anh giúp sức, Thực dân Pháp đã trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, từ cuối
tháng 8 đến đầu tháng 10/1945, được Đế quốc Mỹ làm hậu thuẫn, gần 20 vạn quân
Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng hầu hết các thành phố từ vĩ tuyến 16 trở ra.
Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Quân đội ta vừa xây dựng, vừa chiến đấu thực hiện tốt nhiệm vụ chống thù trong,
giặc ngoài, góp phần bảo vệ vững chắc chính quyền Nhân dân trong những năm đầu
sau cách mạng Tháng Tám (1945-1946).
b. Tham gia toàn quốc kháng chiến, đánh bại thực dân Pháp xâm lược
và can thiệp Mỹ (1946-1954)
Thực hiện âm mưu tái xâm lược nước ta, Thực
dân Pháp thực hiện âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh; thất bại trong kế hoạch đánh
chiếm Hà Nội trong vòng “một tuần”, ngày 7/10/1947, thực dân Pháp huy động hơn
2 vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, mở cuộc tiến công lớn lên
Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta.
Với quyết tâm và tinh thần quyết thắng, Quân đội ta đã lập nên Chiến thắng Việt
Bắc, làm phá sản chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo vệ
cơ quan đầu não và căn cứ của cả nước, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
phát triển sang thời kỳ mới.
Sau chiến dịch Việt Bắc, Thực dân Pháp thực hiện âm mưu “bình
định” đồng bằng Bắc Bộ, cô lập căn cứ địa Việt Bắc, Đảng ta chủ trương vừa đẩy
mạnh chiến tranh du kích, vừa củng cố, xây dựng lực lượng, từng bước tiến lên
đánh những trận phục kích, tập kích lớn hơn, tạo tiền đề của chiến tranh chính
quy về sau. Cuối năm 1949 đầu năm 1950, trước tình hình thế giới có nhiều chuyển
biến tích cực, có lợi cho cuộc kháng chiến của quân và dân ta, Đảng ta đã đề ra
nhiệm vụ tích cực chuẩn bị lực lượng để chuyển sang tổng phản công. Tháng
6/1950, ta mở chiến dịch Biên Giới, tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một
phần biên giới Việt-Trung, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai thông
đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa.
Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc,
nối thông được vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào.
Ta giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của
địch.
Trước những thay đổi trong cục diện chiến tranh ở Đông Dương và
trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng
9/1953, ta mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Thực hiện tư tưởng
tiến công chiến lược, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải
phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nắm quyền chủ động trên các chiến trường
Đông Dương và làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Na-va, buộc
chúng phải phân tán lực lượng đối phó ở khắp nơi. Kế hoạch Na-va từng bước bị
phá sản.
Ngày 6/12/1953, ta mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm
chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt lịch sử làm
thay đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch; trực tiếp đưa đến việc ký
kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về “đình chỉ chiến sự ở Việt Nam”, lập lại hòa bình ở
Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ; bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng tháng Tám. Miền Bắc được
giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành
thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
3. Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1975)
Sau tháng 7/1954, Quân đội ta là “trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
hòa bình”. Nhiệm vụ và phương châm lúc này là: Tích cực xây dựng quân đội nhân
dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại. Ở miền Nam, để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, ngày
15/2/1961, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân Giải phóng miền Nam
Việt Nam
Từ năm 1961 đến 1965, Quân đội ta đã cùng đồng bào miền Nam đánh bại
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt của Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới. Từ 1965 đến 1968, Cùng
toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại miền
Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ
Ở miền Nam, Quân đội ta vừa xây dựng, vừa chiến đấu và phát triển
lực lượng, tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - quân đội
Sài Gòn, đánh bại kế hoạch hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” của địch, tạo
điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển lên một bước mới,
làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Ở miền Bắc, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, đánh trả không
quân, hải quân địch, giành những thắng lợi lớn. Trong 4 năm (1964-1968), quân
và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn
chìm và bắn cháy 143 tàu chiến.
Giữa lúc cuộc chiến tranh leo thang của đế quốc Mỹ đến đỉnh cao
nhất, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) nhằm tạo bước ngoặt lớn, chuyển chiến
tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định.
Chỉ trong một thời gian ngắn, quân và dân ta đã giành chiến thắng. Thắng lợi
của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn chiến
trường miền Nam, cùng với việc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược
của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ
chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.
Thất bại trên chiến trường miền Nam,
từ năm 1969, Mỹ chuyển sang thi hành “Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”. Quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với Nhân dân Lào và Campuchia chiến
đấu, giành được những thắng lợi to lớn trên chiến trường ba nước Đông Dương
trong Xuân - Hè 1971, tạo ra sự thay đổi quan trọng trong cục diện chiến tranh.
Chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” của Mỹ bị thất bại một bước nghiêm trọng.
Đầu năm 1974, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên
toàn miền Nam,
làm thay đổi so sánh lực lượng và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy
quyền Sài Gòn vào thế yếu trầm trọng hơn. Trước nguy cơ đổ vỡ của quân đội Sài
Gòn, ngày 6/4/1974, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải
quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai.
Với tinh thần dũng cảm, bằng cách đánh mưu trí, linh hoạt, quân và
dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích chiến lược lần thứ hai bằng B52 của
Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” tại bầu trời Hà Nội. Thắng lợi to
lớn của quân và dân hai miền Bắc và Nam, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari
về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” (27/1/1973), cam kết tôn
trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu
về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam.
Hiệp định Pari được ký kết, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ âm
mưu chia cắt lâu dài nước ta. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị về chủ
trương giải phóng miền Nam,
ngày 4/3/1975, Quân đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ngày 10 và 11/3/1975, quân ta tiến
công, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, từ ngày 14/3 đến ngày
3/4/1975, quân ta tiến công, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn
bộ Tây Nguyên. Ngày 5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị - Thiên - Huế, giải
phóng tỉnh Quảng Trị (19/3); từ ngày 21-25/3/1975, quân ta tiến công, giải
phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, tiêu diệt và làm tan dã toàn bộ quân
địch trên chiến trường Trị -Thiên. Từ ngày 26- 9/3/1975, quân ta mở chiến dịch
giải phóng Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An (29/3), làm thay đổi hẳn
cục diện và so sánh thế trận lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Ngày 1/4/1975,
giải phóng Bình Định, Phú Yên. Ngày 3/4/1975, giải phóng Khánh Hoà nối liền
vùng giải phóng từ Tây Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ.
Trên cơ sở những thắng lợi quyết định, ngày 14/4/1975, Bộ Chính
trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Thực hiện
tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4/1975,
quân ta bắt đầu nổ súng tiến công đồng loạt vào các mục tiêu, phá vỡ tuyến
phòng thủ vòng ngoài của địch. 5 giờ sáng ngày 30/4/1975, quân ta mở đợt tiến
công cuối cùng. Vào lúc 10 giờ 45 phút, phân đội xe tăng thọc sâu của Quân đoàn
2 tiến vào dinh Độc Lập. Quân ta bắt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn,
buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ
quốc tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Trong 2
ngày 30 tháng 4 và ngày 1 tháng 5, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các Quân khu 8 và 9 nắm thời cơ, phát
động quần chúng nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng hoàn
toàn các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, vùng biển và các đảo ở Tây Nam của Tổ quốc. Hơn
một triệu quân đội Sài Gòn và cả bộ máy chính quyền địch bị đập tan, chế độ
thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng trong hơn 20 năm với 5 đời tổng thống đã
hoàn toàn sụp đổ. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, miền Nam hoàn toàn
giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy
mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc
của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác
chiến hiệp đồng quân, binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam,
góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
4. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc (1975 - 2023)
Quân đội nhân dân Việt Nam ra sức bảo vệ sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất.
Đồng thời “tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội”. Cùng toàn dân đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Đẩy mạnh huấn
luyện, xây dựng nền nếp chính quy, tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Qua gần 40 năm đổi mới, nhất là từ năm 2005
đến nay, Quân đội ta đã có những đóng góp xứng đáng vào những thành tựu chung
của đất nước; nắm chắc và dự báo đúng tình hình liên quan đến quốc phòng - an
ninh; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách bảo vệ Tổ quốc, đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt, đúng đắn
các tình huống phức tạp, các vấn đề nhạy cảm về quốc phòng - an ninh, trong
quan hệ đối nội và đối ngoại, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược,
đồng thời không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng
giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị-xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu,
quân đội đã thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì và thực
hiện tốt công tác sẵn sàng chiến đấu; tỉnh táo, chủ động và kiên quyết đấu
tranh phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kịp thời
phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế
lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng của Nhân dân.
Trong thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, quân đội đã đạt
được những thành tựu mới trên tất cả các lĩnh vực. Trong công tác dân vận, quân
đội đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng-an ninh, phát triển
kinh tế-xã hội; tích cực giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới;
phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn.
Trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, quân đội đã triển khai đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Trải qua 79 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng
thành, cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu
tượng sáng ngời về một quân đội từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu,
phục vụ, quân đội ta đã xây đắp nên những truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ
Hồ”. Đó là:
Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và
biết thắng; gắn bó máu thịt với Nhân dân, quân với dân một ý chí; đoàn kết nội
bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ
nhau, trên dưới đồng lòng thống nhất ý chí và hành động; kỷ luật tự giác,
nghiêm minh; độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng quân đội, xây
dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công; lối sống trong sạch, lành mạnh, có
văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan; luôn luôn nêu cao tinh thần
ham học, cầu tiến bộ, nhạy cảm, tinh tế trong cuộc sống; đoàn kết quốc tế trong
sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.
II. BA MƯƠI TƯ NĂM THỰC HIỆN NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
(22/12/1989 - 22/12/2023)
Ngày 17 tháng 10 năm 1989, Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy Ngày thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12) đồng thời là Ngày hội Quốc phòng toàn dân -
Ngày hội của truyền thống bảo vệ Tổ quốc, Ngày hội tôn vinh và nhân lên hình
ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” - một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong
thời đại mới. Ngày hội Quốc phòng toàn dân cũng là dịp để phát huy truyền thống
yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi chín năm thực hiện Ngày hội Quốc phòng toàn dân, chúng ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng sau đây: Một là, nâng cao nhận thức, ý
thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của toàn xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền
quốc phòng toàn dân, an ninh Nhân dân. Hai là, giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi
trường ổn định, hòa bình và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá
trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế. Ba là, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường, tăng thêm khả năng ngăn
chặn và loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình
huống chiến tranh và các tình huống xâm phạm an ninh quốc gia, nếu xảy ra. Bốn
là, hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện mới. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân bảo vệ Tổ
quốc được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; “thế trận lòng dân” được
củng cố vững chắc. Năm là, lực lượng vũ trang mà nòng cốt là Quân đội nhân dân
có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai
trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 34 năm
Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử vẻ vang của dân
tộc và những chiến công oanh liệt của quân và dân ta; khơi dậy niềm tự hào dân
tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường vượt qua mọi khó
khăn, thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
là lực lượng chính trị tin cậy, đội quân chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới của cách mạng, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, mỗi người tự xác
định bổn phận, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng
nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.