Luật Nuôi con nuôi ra đời
đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hệ thống luật pháp về nuôi con nuôi của
Việt Nam. Lần đầu tiên vấn đề nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi nước
ngoài được điều chỉnh thống nhất trong một đạo luật, góp phần xóa bỏ khoảng
cách giữa hai lĩnh vực này, tăng cường các biện pháp bảo đảm cho trẻ em làm con
nuôi trong nước; việc cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài chỉ là biện pháp thay
thế cuối cùng sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể thu xếp
được cho trẻ em làm con nuôi trong nước.
Luật Nuôi con nuôi là cho
phép đăng ký đối với trường hợp nuôi con nuôi phát sinh trên thực tế giữa công
dân Việt Nam với nhau (nuôi con nuôi thực tế) mà chưa đăng ký trước ngày Luật
này có hiệu lực. Mặc dù các Nghị định của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ
tịch đã quy định việc nuôi con nuôi không được đăng ký, thì không được công
nhận giá trị pháp lý. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên thực tiễn
cho thấy còn tồn tại nhiều trường hợp nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
nhau mà chưa đăng ký. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ nuôi
con nuôi, nhất là quyền lợi của trẻ em, Điều 50 Luật Nuôi con nuôi đã có quy
định cụ thể về vấn đề này: Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau
trước ngày Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, thì được đăng ký trong thời hạn 5 năm kể từ ngày luật này có
hiệu lực, nếu các bên có đủ điều kiện đăng ký theo quy định của pháp luật tại
thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; đến thời điểm luật có hiệu lực mà
quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả 2 bên còn sống; giữa cha, mẹ nuôi
và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.
Sau này Nghị định số 24/2019/NĐ-CP với
những điểm mới sửa đổi, bổ sung so với Nghị
định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 quy
định cụ thể các trường hợp đăng ký con nuôi như sau:
1. Sửa đổi khoản 1 Điều 2 như sau:
“1. Đối với việc nuôi con nuôi trong nước,
trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi;
cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi cư trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi thực
hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ
sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên
bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi;
trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con
nuôi.”
2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 3 như sau:
“1. Trẻ em
khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận đích danh làm con nuôi theo
quy định tại điểm d khoản 2 Điều 28 của Luật nuôi con nuôi,
gồm trẻ em bị sứt môi hở hàm ếch; trẻ em bị mù một hoặc cả hai mắt; trẻ em bị
câm, điếc; trẻ em bị khoèo chân, tay; trẻ em không có ngón hoặc bàn chân, tay;
trẻ em nhiễm HIV; trẻ em mắc các bệnh về tim; trẻ em không có hậu môn hoặc bộ
phận sinh dục; trẻ em mắc các bệnh về máu; trẻ em bị khuyết tật khác hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo khác cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời.”
3. Sửa đổi, bổ sung Điều 4 như
sau:
“Điều 4. Hỗ trợ, tiếp nhận, quản lý, sử
dụng hỗ trợ nhân đạo ở cơ sở nuôi dưỡng
Việc hỗ
trợ, tiếp nhận, quản lý, sử dụng hỗ trợ nhân đạo nhằm mục đích nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên chăm
sóc, nuôi dưỡng trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được thực hiện theo quy định
tại Điều 7 của Luật nuôi con nuôi, pháp luật về tiếp
nhận, quản lý và sử dụng các khoản viện trợ, tài trợ cho các cơ sở nuôi dưỡng
công lập và ngoài công lập và quy định cụ thể sau đây:
1. Cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hỗ
trợ nhân đạo thông qua chương trình, dự án, viện trợ phi dự án hoặc tài trợ cho
Quỹ bảo trợ trẻ em.
2. Khi hỗ trợ nhân đạo, cá nhân, tổ chức
không được yêu cầu cơ sở nuôi dưỡng cho trẻ em làm con nuôi; cơ sở nuôi dưỡng
không được cam kết cho trẻ em làm con nuôi vì lý do đã nhận hỗ trợ nhân đạo.
Trường hợp cá nhân, tổ chức hỗ trợ nhân
đạo bằng tiền thì phải thực hiện thông qua tài khoản của cơ sở nuôi dưỡng.
3. Khi hỗ trợ, tiếp nhận hỗ trợ nhân đạo,
ngoài việc thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cha mẹ nuôi
nước ngoài, tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam và
cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm như sau:
a) Cha mẹ nuôi nước ngoài thông tin cho tổ
chức con nuôi nước ngoài về các khoản hỗ trợ nhân đạo đã thực hiện ở Việt Nam;
b) Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo
yêu cầu, tổ chức con nuôi nước ngoài báo cáo Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư pháp (sau
đây gọi là Cục Con nuôi) các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và của tổ
chức;
c) Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo
yêu cầu, cơ sở nuôi dưỡng báo cáo việc tiếp nhận, sử dụng và quản lý các khoản
hỗ trợ nhân đạo theo quy định của pháp luật và báo cáo Cục Con nuôi về việc
tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và tổ
chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam.”