Kỷ niệm 78 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2022) và 33 năm ngày hội quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2022)
I,
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - 78 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
Quân
đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục
và rèn luyện. Trải qua 78 năm xây dựng, phát triển đã kế thừa và phát huy
truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc của dân tộc, vừa chiến đấu vừa xây dựng,
ngày càng phát triển và không ngừng trưởng thành.
1.
Sự ra đời của Quân đội nhân dân Việt Nam vai trò nòng cốt trong cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Trong
Luận cương Chính trị đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định sự tất yếu phải tổ chức ra
quân đội công nông để giành chính quyền. Vì vậy, khi vừa ra đời, trong phong
trào cách mạng 1930-1932, Đảng đã chủ trương thành lập các Đội tự vệ đỏ (xích
đỏ). Những năm 1940-1945, lần lượt các tổ chức vũ trang ra đời như: Đội du kích
Bắc Sơn, du kích Nam Kỳ, đội du kích Ba Tơ, đội Du kích Pắc Bó, Cứu Quốc quân.
Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào đấu tranh vũ trang đòi hỏi phải
có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt tổ chức để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc. Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, Tháng 12/1944
Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội. Ngay sau ngày thành lập, ngày
25/12/1944 Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã Chiến thắng trận Phai
Khắt, Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống đánh là chắc thắng, thắng ngay từ trận
đầu của quân đội ta.
Tháng 4/1945, Trung ương Đảng
triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực
lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu Quốc quân và
các tổ chức vũ trang khác...) thành lập Việt Nam Giải phóng quân; Ngày
15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên,
đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương phân công đảm nhận cương vị Tư lệnh các
lực lượng vũ trang.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ
trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, lực lượng vũ trang đã làm nòng cốt, hỗ
trợ cho phông trào nổi dậy của quần chúng Nhân dân khởi nghĩa giành chính
quyền. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam Giải phóng quân được
đổi tên thành Vệ Quốc quân. Năm 1946, Vệ Quốc quân đổi tên thành Quân đội Quốc
gia Việt Nam.
Năm 1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
2.
Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường
kỳ, chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
a.
Tham gia xây dựng, bảo vệ chính quyền và tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược (1945 -1946)
Cách
mạng Tháng Tám thành công, chính quyền Nhân dân ra đời đã phải đứng trước một
tình thế vô cùng phức tạp, khó khăn. Vừa phải chống “giặc đói”, “giặc dốt” và
các tệ nạn xã hội; vừa phải tập trung chống “giặc ngoại xâm” ngay từ đầu. Ở Nam
Bộ, ngày 23 tháng 9 năm 1945, được quân Anh giúp sức, Thực dân Pháp đã
trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ
hai. Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 10/1945, được Đế
quốc Mỹ làm hậu thuẫn, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng hầu hết
các thành phố từ vĩ tuyến 16 trở ra.
Trước
tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Quân đội ta vừa xây dựng, vừa chiến đấu
thực hiện tốt nhiệm vụ chống thù trong, giặc ngoài, góp phần bảo vệ vững chắc
chính quyền Nhân dân trong những năm đầu sau cách mạng Tháng Tám (1945-1946).
b.
Tham gia toàn quốc kháng chiến, đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ
(1946-1954)
Thực
hiện âm mưu tái xâm lược nước ta, Thực dân Pháp thực hiện âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh; thất bại trong kế hoạch đánh chiếm Hà Nội trong vòng “một tuần”,
ngày 7/10/1947, thực dân Pháp huy động hơn 2 vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu
chiến hỗ trợ, mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan lãnh
đạo kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Với quyết tâm và tinh thần quyết
thắng, Quân đội ta đã lập nên Chiến thắng Việt Bắc, làm phá sản chiến lược
“Đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo vệ cơ quan đầu não và căn cứ
của cả nước, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát triển sang thời kỳ
mới.
Sau chiến dịch Việt Bắc, Thực
dân Pháp thực hiện âm mưu “bình định” đồng bằng Bắc Bộ, cô lập căn cứ địa Việt
Bắc, Đảng ta chủ trương vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích, vừa củng cố, xây dựng
lực lượng, từng bước tiến lên đánh những trận phục kích, tập kích lớn hơn, tạo
tiền đề của chiến tranh chính quy về sau. Cuối năm 1949 đầu năm 1950, trước
tình hình thế giới có nhiều chuyển biến tích cực, có lợi cho cuộc kháng chiến
của quân và dân ta, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ tích cực chuẩn bị lực lượng để
chuyển sang tổng phản công. Tháng 6/1950, ta mở chiến dịch Biên Giới, tiêu diệt
sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới Việt-Trung, mở rộng và củng cố căn
cứ địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa.
Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị
quyết định mở chiến dịch Tây Bắc, nối thông được vùng giải phóng Tây Bắc với
căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào. Ta giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất
bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch.
Trước những thay đổi trong cục
diện chiến tranh ở Đông Dương và trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh
lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, ta mở cuộc tiến công chiến lược Đông
Xuân 1953-1954. Thực hiện tư tưởng tiến công chiến lược, quân và dân ta đã tiêu
diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nắm quyền chủ
động trên các chiến trường Đông Dương và làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng
cơ động của Na-va, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó ở khắp nơi. Kế
hoạch Na-va từng bước bị phá sản.
Ngày 6/12/1953, ta mở chiến
dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân
và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết
định, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và
địch; trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về “đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam”, lập lại hòa bình ở Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; bảo vệ và phát triển thành quả
cách mạng tháng Tám. Miền Bắc được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc
để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
3.
Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Sau tháng 7/1954, Quân đội ta
là “trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình”. Nhiệm vụ và phương châm lúc này
là: Tích cực xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính
quy, hiện đại. Ở miền Nam,
để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, ngày 15/2/1961, Quân ủy Trung ương quyết định
thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
Từ năm 1961 đến 1965, Quân đội
ta đã cùng đồng bào miền Nam
đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt của Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới. Từ 1965 đến 1968,
Cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại
miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ
Ở miền Nam, Quân đội ta vừa xây
dựng, vừa chiến đấu và phát triển lực lượng, tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành
quân quy mô lớn của Mỹ - quân đội Sài Gòn, đánh bại kế hoạch hai gọng kìm “tìm
diệt” và “bình định” của địch, tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước phát triển lên một bước mới, làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
của Mỹ.
Ở miền Bắc, quân và dân ta đã
anh dũng chiến đấu, đánh trả không quân, hải quân địch, giành những thắng lợi
lớn. Trong 4 năm (1964-1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các
loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy 143 tàu chiến.
Giữa lúc cuộc chiến tranh leo
thang của đế quốc Mỹ đến đỉnh cao nhất, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968)
nhằm tạo bước ngoặt lớn, chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới
- thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Chỉ trong một thời gian ngắn, quân và dân
ta đã giành chiến thắng. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt
Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn chiến trường miền Nam, cùng với việc đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã giáng
đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.
Thất bại trên chiến trường miền Nam, từ năm 1969, Mỹ chuyển
sang thi hành “Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”. Quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với Nhân dân Lào và Campuchia chiến
đấu, giành được những thắng lợi to lớn trên chiến trường ba nước Đông Dương
trong Xuân - Hè 1971, tạo ra sự thay đổi quan trọng trong cục diện chiến tranh.
Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị thất bại một bước nghiêm trọng.
Đầu năm 1974, quân và dân ta mở
cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, làm thay đổi so sánh lực lượng
và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn vào thế yếu trầm
trọng hơn. Trước nguy cơ đổ vỡ của quân đội Sài Gòn, ngày 6/4/1974, đế quốc Mỹ
huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá
miền Bắc lần thứ hai.
Với tinh thần dũng cảm, bằng
cách đánh mưu trí, linh hoạt, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích
chiến lược lần thứ hai bằng B52 của Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”
tại bầu trời Hà Nội. Thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Bắc và Nam, buộc
đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở
Việt Nam” (27/1/1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu
ra khỏi miền Nam.
Hiệp định Pari được ký
kết, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Thực hiện sự
chỉ đạo của Bộ Chính trị về chủ trương giải phóng miền Nam, ngày
4/3/1975, Quân đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ngày 10 và 11/3/1975, quân ta tiến công,
giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, từ ngày 14/3 đến ngày 3/4/1975,
quân ta tiến công, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây
Nguyên. Ngày 5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị - Thiên - Huế, giải phóng tỉnh
Quảng Trị (19/3); từ ngày 21-25/3/1975, quân ta tiến công, giải phóng thành phố
Huế và tỉnh Thừa Thiên, tiêu diệt và làm tan dã toàn bộ quân địch trên chiến
trường Trị -Thiên. Từ ngày 26- 9/3/1975, quân ta mở chiến dịch giải phóng Đà
Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An (29/3), làm thay đổi hẳn cục diện và so
sánh thế trận lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Ngày 1/4/1975, giải phóng Bình
Định, Phú Yên. Ngày 3/4/1975, giải phóng Khánh Hoà nối liền vùng giải phóng từ
Tây Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ.
Trên cơ sở những thắng lợi
quyết định, ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh
nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo:
“Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4/1975, quân ta bắt đầu nổ
súng tiến công đồng loạt vào các mục tiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài
của địch. 5 giờ sáng ngày 30/4/1975, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng. Vào
lúc 10 giờ 45 phút, phân đội xe tăng thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến vào dinh Độc
Lập. Quân ta bắt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương
Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa
nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Trong 2 ngày 30 tháng 4 và ngày
1 tháng 5, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long, các Quân khu 8 và 9 nắm thời cơ, phát động quần
chúng nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng hoàn toàn các
tỉnh đồng bằng Nam Bộ, vùng biển và các đảo ở Tây Nam của Tổ quốc. Hơn một
triệu quân đội Sài Gòn và cả bộ máy chính quyền địch bị đập tan, chế độ thực
dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng trong hơn 20 năm với 5 đời tổng thống đã hoàn
toàn sụp đổ. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, miền Nam hoàn toàn
giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy
mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc
của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác
chiến hiệp đồng quân, binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam,
góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
4.
Quân đội nhân dân Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2022)
Quân
đội nhân dân Việt Nam ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và
hải đảo của nước Việt Nam thống nhất. Đồng thời “tích cực tham gia sản xuất,
góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Cùng toàn dân
đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên
giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Đẩy mạnh huấn luyện, xây
dựng nền nếp chính quy, tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Qua
gần 40 năm đổi mới, nhất là từ năm 2005 đến nay, Quân đội ta đã có những đóng
góp xứng đáng vào những thành tựu chung của đất nước; nắm chắc và dự báo đúng
tình hình liên quan đến quốc phòng - an ninh; chủ động tham mưu, đề xuất với
Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách bảo vệ Tổ quốc,
đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt, đúng đắn các tình huống phức tạp, các vấn đề
nhạy cảm về quốc phòng - an ninh, trong quan hệ đối nội và đối ngoại, không để
đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, đồng thời không để cho các thế lực thù
địch lợi dụng, chống phá; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng giềng; bảo đảm sự ổn định chính
trị-xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền
vững.
Trong
thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quân đội đã thường xuyên nêu cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, duy trì và thực hiện tốt công tác sẵn sàng chiến đấu;
tỉnh táo, chủ động và kiên quyết đấu tranh phòng chống chiến lược “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi
âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
và thành quả cách mạng của Nhân dân. Trong thực hiện nhiệm vụ lao động sản
xuất, xây dựng kinh tế, quân đội đã đạt được những thành tựu mới trên tất cả
các lĩnh vực. Trong công tác dân vận, quân đội đã góp phần tích cực trong việc
tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng hệ thống chính trị,
tăng cường quốc phòng-an ninh, phát triển kinh tế-xã hội; tích cực giúp dân xóa
đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên
tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Trong công tác đối ngoại và hội nhập
quốc tế, quân đội đã triển khai đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ và đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng.
Trải
qua 78 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, cùng với những chiến công mãi
mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng ngời về một quân đội từ
Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, phục vụ, quân đội ta đã xây đắp nên
những truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó là:
Trung
thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân;
quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng; gắn bó máu thịt với Nhân
dân, quân với dân một ý chí; đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng thống nhất
ý chí và hành động; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường, cần kiệm xây dựng quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của
công; lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản
dị, lạc quan; luôn luôn nêu cao tinh thần ham học, cầu tiến bộ, nhạy cảm, tinh
tế trong cuộc sống; đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí
tình.
II.
BA MƯƠI BA NĂM THỰC HIỆN NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2022)
Ngày
17 tháng 10 năm 1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số
381-CT/TW quyết định lấy Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12) đồng
thời là Ngày hội Quốc phòng toàn dân - Ngày hội của truyền thống bảo vệ Tổ
quốc, Ngày hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” - một nét
độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Ngày hội Quốc phòng
toàn dân cũng là dịp để phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi chín năm thực hiện
Ngày hội Quốc phòng toàn dân, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng
sau đây: Một là, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của toàn
xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh Nhân dân. Hai
là, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường ổn định, hòa bình và an ninh cho sự phát
triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Ba là, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng
cường, tăng thêm khả năng ngăn chặn và loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng
đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh và các tình huống xâm phạm an ninh
quốc gia, nếu xảy ra. Bốn là, hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện mới. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân
dân bảo vệ Tổ quốc được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; “thế trận
lòng dân” được củng cố vững chắc. Năm là, lực lượng vũ trang mà nòng cốt là
Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao,
phát huy được vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 78 năm Ngày thành lập Quân
đội nhân dân Việt Nam và 33 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta
ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc và những chiến công oanh liệt của quân và
dân ta; khơi dậy niềm tự hào dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự
lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực lượng chính trị tin cậy, đội quân chiến
đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ mới của cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở đó, mỗi người tự xác định bổn phận, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.